Viêm gan virus B là một trong những tình trạng y tế nghiêm trọng toàn cầu, ảnh hưởng tới một phần ba dân số thế giới. Trong bối cảnh tỷ lệ người mắc bệnh và tử vong ngày càng tăng, các liệu pháp mới điều trị viêm gan virus B trở nên vô cùng quan trọng và cần thiết.
Tìm hiểu liệu pháp điều trị bệnh viêm gan B
Tổng quan về Viêm gan virus B
Viêm gan B là một bệnh nhiễm virus tấn công gan và có thể gây ra bệnh cấp tính và mãn tính, là nguyên nhân chính dẫn đến tử vong do biến chứng xơ gan và ung thư gan.
Nguyên nhân gây bệnh
Virus viêm gan B là nguyên nhân gây nhiễm trùng gan mãn tính ở người. Sau khi lây nhiễm, virus tồn tại nhiều năm trong máu và các tế bào gan, ở thể ngủ hoặc hoạt động.
Virus viêm gan B có khả năng lây nhiễm gấp 100 lần so với virus gây bệnh HIV. Con đường lây truyền chính là thông qua việc tiếp xúc với chất dịch cơ thể bị nhiễm bệnh như máu, nước bọt, dịch âm đạo và tinh dịch. Nó cũng có thể được truyền từ mẹ sang con.
Ở thể ngủ, còn gọi là người lành mang bệnh, virus không hoạt động hay gây các tổn thương trên gan.
Sự suy giảm miễn dịch gan, do tuổi tác hoặc sự tấn công của các tác nhân độc hại, tạo điều kiện cho virus hoạt động, tăng sinh, gây viêm ồ ạt và phá hủy hàng loạt tế bào gan.
Thực trạng viêm gan B trên toàn cầu và Việt Nam
Viêm gan virus B là một trong những vấn đề y tế nghiêm trọng, gây ảnh hưởng trên ⅓ dân số trên toàn thế giới.
Theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới WHO, có 254 triệu người đang sống chung với bệnh viêm gan B mãn tính vào năm 2022, với gần 1,5 triệu ca nhiễm mới mỗi năm.
Có khoảng 1,1 triệu ca tử vong mỗi năm do viêm gan B, chủ yếu là do xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan (ung thư gan nguyên phát). Điều này có nghĩa là cứ mỗi phút lại có 2 người chết vì viêm gan B.
Việt Nam là một trong những nước ở Đông Nam Á có tỉ lệ viêm gan và ung thư hàng đầu. Trong đó, tỉ lệ viêm gan B liên quan đến ung thư chiếm tới 91.3%.
Tỷ lệ mắc và tử vong viêm gan B trên toàn cầu hiện nay
Quản lý viêm gan B: hiện tại, thách thức và tiến bộ toàn cầu
Khoảng trống tồn tại trong chẩn đoán và điều trị
Vaccin viêm gan siêu vi B đầu tiên đã được chấp thuận tại Hoa Kỳ vào năm 1981 với hiệu quả và an toàn cao.
Tiêm vaccin cho trẻ 24 giờ đầu sau sinh là cách tốt nhất để phòng lây truyền virus viêm gan B từ mẹ sang con.
Đối với những người bị viêm gan B mãn tính, điều trị tương tự nucleoside bằng tenofovir hoặc entecavir có hiệu quả cao, làm giảm sự tiến triển của bệnh gan và tỷ lệ mắc ung thư biểu mô tế bào gan và cải thiện khả năng sống sót lâu dài.
Tuy nhiên vẫn có khoảng cách rất lớn trong chẩn đoán, điều trị cũng như dự phòng bệnh.
Thực tế, trong năm 2022, chỉ có 13% số người mắc bệnh viêm gan B mãn tính được chẩn đoán và 3% được điều trị, thấp hơn nhiều so với con số mục tiêu là 80% trên tổng số người nhiễm virus.
Tỷ lệ tiêm chủng chu sinh chỉ là 45% trên toàn cầu, tại khu vực Châu Phi thậm chí còn dưới 20%.
Thách thức
- Đặc tính sinh học của virus
Thách thức lớn nhất trong điều trị khỏi viêm gan virus B là đặc tính sinh học của virus, chúng tích hợp vật liệu di truyền (cccDNA) vào hệ gen của người.
Virus viêm gan B có khả năng phát triển nhiều cơ chế trốn tránh hệ thống miễn dịch. Vì vậy, rất khó để loại bỏ hoàn toàn virus khỏi vật chủ, kể cả với các thuốc kháng virus hiệu quả.
Viêm gan virus gây phá hủy tế bào gan và suy giảm chức năng gan, kéo theo sự suy giảm thể trạng và đáp ứng miễn dịch ở người bệnh.
Hiện nay, thuốc kháng virus được cấp phép điều trị cho viêm gan virus B mạn tính là các chất tượng tự nucleic acid (NAs). Tuy nhiên, các hoạt chất này chỉ có tác dụng ức chế virus nhân lên, mà không thể loại bỏ được virus ra khỏi cơ thể.
Cấu trúc virus viêm gan B
- Chi phí điều trị và dịch vụ cung cấp
Mặc dù có sẵn các loại thuốc điều trị viêm gan siêu vi có giá cả phải chăng nhưng nhiều quốc gia không thể mua được chúng với mức giá thấp hơn.
Việc cung cấp dịch vụ vẫn tập trung và theo chiều dọc, tại nhiều quốc gia, bệnh nhân phải chi trả toàn bộ chi phí điều trị và kiểm soát bệnh.
Chỉ 60% các quốc gia cung cấp dịch vụ xét nghiệm và điều trị viêm gan siêu vi miễn phí, toàn bộ hoặc một phần.
- Nguồn vốn vẫn là thách thức
Nguồn tài trợ cho bệnh viêm gan siêu vi ở cấp độ toàn cầu hoặc trong ngân sách y tế quốc gia không đủ để đáp ứng nhu cầu. Điều này xuất phát từ sự kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm nhận thức hạn chế về các biện pháp can thiệp và công cụ tiết
Liệu pháp mới điều trị viêm gan B
Với những nô lực toàn cầu trong việc kiểm soát và xóa bỏ viên gan virus B, nhiều liệu pháp đang được phát triển nhằm mục đích giảm thời gian điều trị và tăng khả năng khỏi bệnh (được hiểu là mất HBsAg).
Mục tiêu điều trị khỏi bệnh với viêm gan B mạn là loại bỏ hoặc bất hoạt cccDNA và genome tích hợp của HBV.
Các liệu pháp mới có triển vọng trong điều trị viêm gan virus B mạn có thể kể tới như:
- Ức chế xâm nhập (entry inhibitor)
- siRNA (small interfering RNA: tiểu RNA can thiệp)
- Quá trình tổng hợp HBsAg (HBsAg assembly agents)
- Điều hòa tổng hợp capsid (CAMs: capsid assembly modulators)
- Điều biến miễn dịch (immunomodulatory approaches).
Ngoài các thuốc đang phát triển ở các pha thử nghiệm lâm sàng ở trên, một số hướng nghiên cứu giai đoạn tiền lâm sàng với các đích tác động khác nhau như: tác động gen X, cccDNA, bất hoạt HBV-RNA/cccDNA, sửa gen cccDNA dựa trên công nghệ CRISPR-Cas9.
Kết quả các thử nghiệm lâm sàng cho thấy tỷ lệ mất HBsAg còn hạn chế, nhưng mang lại nhiều hy vọng mới cho điều trị khỏi bệnh viêm gan virus B.
Một trong những cách tiếp cận khác được cho là mang lại hy vọng cho người bệnh viêm gan virus B là kết hợp các liệu pháp, như kết hợp thuốc kháng virus (NAs) với liệu pháp miễn dịch (như vaccin hay liệu pháp gen) cũng đang được phát triển và thử nghiệm trên lâm sàng
Mặc dù còn nhiều thách thức, tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về virus cũng như đáp ứng miễn dịch của cơ thể với virus, qua đó phát triển các chiến thuật mới trong kiểm soát và điều trị khỏi viêm gan virus B. Hy vọng, trong tương lai không xa, chúng ta có thể bệnh viêm gan virus B mạn thành bệnh bị lãng quên.
Dược sĩ Thu Hà