Cây đào và những bài thuốc chữa bệnh ít người biết tới

Không chỉ là loài hoa tượng trưng cho mùa xuân của miền Bắc, cây đào còn là một vị thuốc với nhiều công dụng trong Đông y. Cho dù là nhân hạt, hoa, lá, nhựa, vỏ, rễ hay quả của cây cũng đều có giá trị cao đối với sức khỏe con người.

Cây đào có rất nhiều giá trị cho sức khỏe

Tổng quan 

Tên gọi danh pháp

Tên khoa học Prunus persica Stokes (Amygdalus persica L.)

Thuộc họ Hoa hồng Rosaceae

Cây đào cho ta các vị thuốc

  1. Nhân hạt đào tức là đào nhân (Semen Persicae).
  2. Nước cất lá đào (Aqua Persicae).

Đặc điểm thực vật

Cây đào là một cây nhỏ, cao 3-4m, da thân cây nhẫn. Trên thân thường có chất nhầy đùn ra gọi là nhựa đào.

Lá đơn, mọc so le, có cuống ngắn, hình mác. Phiến lá dài 5-8cm, rộng 1,2 1,5cm, mép lá có răng cưa. Khi vò có mùi hạnh nhân.

Hoa đào thường xuất hiện trước lá, màu hồng nhạt, 5 cánh, 8 nhị màu vàng. Quả hạch hình cầu, đầu nhọn có một ngấn lõm vào, chạy dọc theo quả. Vỏ ngoài có lông rất mịn. Khi chính quả có những đám đỏ.

Hình ảnh cây đào

Phân bố, thu hái và chế biến

Cây đào nguồn gốc ở Ba Tư. Hiện được trồng ở nhiều nước như Liên Xô cũ, Trung Quốc, Lào, Việt Nam.

Chúng được tìm thấy mọc cả ở rừng núi và đồng bằng. Ở Việt Nam nhiều nhất tại Lào Cai (Sapa), Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang. Hạt đào thu hái vào tháng 7, lấy hạch về đập lấy hạt phơi hay sấy khô gọi là đào nhân.

Thành phần hoá học

Quả đào (phần thịt) có chứa chất màu carotenoid, lycopen, cryptoxanthin và zeaxanthin.

Khoảng 15% là chất đường, các acid hữu cơ (acid citric, acid tactric), vitamin C, axit chlorogenic, rất nhiều tinh dầu, bao gồm Acetaldehyde, este của linalool cùng các axit axetic, valerianic, caprylic…

Hạt đào chứa tới hơn 50% dầu, tỷ trọng 0,9114-0,9325, chỉ số xà phòng 190, chỉ số iốt 72-99. Ngoài ra còn 3,5% amygdalin, ít tinh dầu (0,4-0,7%), men emulsin.

Ngoài ra trong hạt đào có được tìm thấy có chứa cholin và acetylcholine trong khi lá có chứa amygdalin, axit tanic, coumarin.

Công dụng của cây đào

Theo Y học cổ truyền

Theo Đông y, đào nhân có vị đắng, ngọt, tính bình, có tác dụng phá huyết thông kinh, nhuận táo, hoạt trường, lợi tiểu hạ huyết áp, chữa ho.

Lá đào có vị đắng, tính bình, có tác dụng làm tan kết tụ và giảm đau, ngoài ra còn có tác dụng lợi tiểu mạnh.

Các bộ phận của cây đào đều có thể dùng làm thuốc

Tác dụng dược lý

Theo các nhà nghiên cứu, đào nhân được dùng thay chất ergotin làm co tử cung, tác dụng trên mạch máu của tử cung làm đông máu.

Ứng dụng của cây đào trong việc chữa bệnh

Liều lượng cách dùng

Ðào nhân dùng sống trị kinh nguyệt bế tắc, sinh hòn cục, bụng dưới đầy, đau, vấp ngã ứ huyết; dùng chín thì hoạt huyết, chữa đại tiện khó đi do huyết táo, ngày dùng 6-12g dạng thuốc sắc.

Ðào nhân còn dùng chữa ho như hạt mơ. Lá đào thường dùng sắc nước hoặc vò ra lấy nước tắm ghẻ, sưng ngứa, chốc lở, xát và ngâm chữa đau chân.

Hoa đào cũng được dùng làm thuốc lợi tiểu và tẩy xổ, để chữa thủy thũng, táo bón. Ngày dùng 3-5g hãm uống.

Nhựa đào dùng trị đái ra dưỡng trấp, đái đường.

Bài thuốc có chứa đào nhân

Đào nhân, hồng hoa, ngưu tất, tô mộc, mần tưới, nghệ vàng đều bằng nhau, mỗi vị 8-15g sắc uống.

  • Chữa bí đại tiện

Dùng đào nhân 40g luộc ăn vào lúc đói.

  • Chữa đại tiểu tiện không thông

Dùng lá đào một nắm to, giã vắt lấy nước cốt uống.

  • Chữa phù thũng

Dùng vỏ cây đào ngâm rượu uống.

  • Chữa đái dưỡng trấp

Dùng nhựa cây đào 12g tán nhỏ uống với nước sắc 30g dây tơ hồng.

  • Chữa đái đường

Dùng nhựa đào 20g tán nhỏ uống với nước sắc địa cốt bì và râu bắp (mỗi thứ 30g).

  • Chữa chốc lở, rôm sảy, sưng âm hộ

Giã lá đào tươi xoa xát.

  • Chữa phù, đại tiện táo bón

Dùng hoa đào 3-5g, sắc uống.

  • Chữa bại liệt nửa người

Lấy 2.000 nhân quả đào đã bóc vỏ cho vào một lít rưỡi rượu để ngâm 21 ngày, vớt nhân Ðào đem phơi khô sấy giòn, tán nhỏ mịn, trộn với nước cháo cho vừa dẻo làm viên to bằng hạt đậu đen, mỗi ngày uống 30 viên với một thìa rượu ngâm nước của nó.

  • Chữa đau vùng tim đột ngột

Lấy 30g nhân hạt đào bóc vỏ giã nhừ, cho vào một chén nước đun kỹ để uống 3 lần.

Dược sĩ Thu Hà