Giảm đau cho người bệnh ung thư

Đau trong bệnh ung thư là một trong những triệu chứng quan trọng nhất cần điều trị. Đau đớn sẽ làm người bệnh suy sụp một cách toàn diện: làm giảm nghiêm trọng chất lượng cuộc sống, thể lực, tinh thần, dinh dưỡng, các sinh hoạt bình thường và cả kết quả chữa bệnh. Bởi vậy, điều trị giảm đau là một trong những vấn đề cần được chú trọng hàng đầu trong điều trị bệnh nhân ung thư.

Nguyên nhân gây đau         

Ở giai đoạn sớm, ung thư thường chưa gây đau. Ở giai đoạn muộn hơn, trên 70% bệnh nhân bị các bệnh ung thư có biểu hiện đau đớn, tỷ lệ này ở giai đoạn cuối là hơn 90%. Việc giảm và cắt cơn đau là mong muốn của bệnh nhân, thân nhân cũng như mục đích của các bác sĩ. Với các bệnh nhân ung thư, mức độ đau đớn cũng tỷ lệ thuận với tiên lượng của bệnh.

Đau trong ung thư có thể chia thành bốn nguyên nhân chính:

  • Đau do khối ung thư chèn ép vào các tổ chức xung quanh khối u hoặc ở xa khi đã có di căn (75 – 80 %).
  • Đau do quá trình điều trị: mổ cắt bỏ khối u, điều trị bằng tia xạ, điều trị bằng hóa chất (15-19%).
  • Đau do các thủ thuật xét nghiệm chẩn đoán: lấy máu làm xét nghiệm, nội soi, sinh thiết…
  • Đau không liên quan đến ung thư: đau ở một cơ quan hay một bộ phận cơ thể, vì lý do này nên bệnh nhân đi khám, tình cờ lại phát hiện ra ung thư ở một cơ quan hay bộ phận khác của cơ thể (ví dụ: đau ruột thừa đi khám và tình cờ phát hiện ung thư thận…).
Dùng thuốc điều trị đau do ung thư
Dùng thuốc hoặc không dùng thuốc trong điều trị đau do ung thư phải do bác sĩ chỉ định.

Phân loại đau trong bệnh ung thư

Hội chứng đau trong bệnh ung thư được phân ra ba loại: đau thực thể, đau các nội tạng và đau do căn nguyên thần kinh. Các phương pháp điều trị đặc hiệu cho bệnh ung thư cũng có thể gây đau.

Đau thực thể

Đau ở đây là do khối u xâm lấn, chèn ép vào các tổ chức cơ quan tại chỗ, bên cạnh hoặc ở nơi khối u di căn đến. Sự chèn ép này bản thân đã gây ra đau do kích thích các thụ cảm thể áp lực. Đồng thời gây chèn ép tuần hoàn tại chỗ và phản ứng viêm cùng với sự giải tỏa của các chất hóa học hướng viêm gây ra sự kích thích liên tục cho cảm thụ quan hóa học và làm cơn đau nặng hơn, đều đặn hơn.

Các cơn đau này có thể cấp tính, mạn tính hoặc xảy ra từng đợt. Thường bệnh nhân cảm thấy đau tức với cường độ khác nhau, các mô kề cận bị co cứng và đau thường tăng khi bị đè nén hoặc khi vận động. Nhưng, cũng có những trường hợp bệnh nhân không cảm thấy đau, hoặc mức độ đau không tương xứng với tổn thương thực tế.

>> Xem thêm Di căn gan và những điều cần biết

Đau nội tạng

Các cơ quan nội tạng như phổi, gan, nhu mô của thận không có cảm thụ đau, bởi vậy người bệnh không có biểu hiện đau mặc dù bị tổn thương nặng và rộng lớn do ung thư, trừ khi các khối u ảnh hưởng đến các cấu trúc ống hoặc các tổ chức lân cận của các cơ quan này. Các cơn đau từ phủ tạng thường lan tỏa theo hệ thần kinh thực vật nên nhiều khi làm chúng ta không thể xác định nguồn gốc và vị trí của cơ quan bị bệnh.

Về bệnh học, đau tạng phủ thường là sự tổng hợp của những nguyên nhân sau: bế tắc (căng và phù), thiếu oxy dẫn đến sự tăng nồng độ của acid cùng với phản ứng viêm do các tổn thương của ung thư gây ra. Các yếu tố này kích thích các cảm thụ quan ở vỏ bọc và các tổ chức lân cận dẫn đến đau. Một số cơ quan như đại tràng thường nhạy cảm với các căng cứng và viêm, dẫn đến đau, nhưng lại vô cảm, không báo đau khi bị bỏng hoặc rách.

Đau do căn nguyên thần kinh

Ở hệ thần kinh trung ương, các khối u tại não có thể gây chèn ép và đau đớn. Còn ở thần kinh ngoại vi, đau có thể gây ra do sự chèp ép và xâm nhập của các khối u, cũng như tác dụng độc hại của hóa và xạ trị liệu.

Các đặc điểm của đau thần kinh là: các cơn đau đột ngột như bỏng buốt, có thể cũng buốt như bị đâm. Hiện tượng đau ở thần kinh ngoại biên cũng có thể dẫn tới sự hình thành của các vùng nhạy cảm và duy trì hiệu ứng đau từ thần kinh trung ương.

>> Xem thêm Khả năng trị khỏi ung thư nhờ Y học cổ truyền

Bậc thang sử dụng thuốc giảm đau

Các loại thuốc là phương tiện chính để điều trị đau trong bệnh ung thư. Mục đích sử dụng thuốc là làm giảm đau tối đa tần số và cường độ của các cơn đau với tác dụng phụ cũng như độc hại ở mức cho phép.

Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra khái niệm bậc thang giảm đau như là một cách khuyến khích việc sử dụng thích hợp các thuốc giảm đau ở các quốc gia ít sử dụng loại thuốc này.

Với những cơn đau nhẹ (bậc 1), các bác sĩ thường dùng các thuốc chống viêm giảm đau dạng không steroid: paracetamol, ibuprofen… Nếu các thuốc này không còn tác dụng, ở các bậc cao hơn, thuốc giảm đau trung ương yếu (bậc 2) và giảm đau trung ương mạnh gồm morphin hoặc các dẫn xuất (bậc 3) sẽ được dùng phối hợp.

Tác dụng phụ của thuốc giảm đau rất thường gặp, do vậy bệnh nhân tốt nhất cần được theo dõi cẩn thận để có biện pháp khắc phục điều trị kịp thời.

Nhóm thuốc chống viêm dạng không steroid (ibuprofen, aspirin, naproxen, paracetamol) có thể gây nôn mửa, tổn thương và chảy máu đường tiêu hóa, đặc biệt là ibuprofen, aspirin. Paracetamol có thể gây hại gan, khả năng này là rất lớn khi bệnh nhân uống rượu hoặc bia. Nhóm thuốc kháng COX-2 được dùng để trị bệnh viêm khớp, nhưng chưa được nghiên cứu và chứng minh là có tác dụng trong điều trị đau ở bệnh nhân ung thư.

Các dẫn chất morphin được dùng rất nhiều trong điều trị đau do ung thư. Hiện nay, các chất này thường được kết hợp với paracetamol (percocet) hoặc aspirin (perodan). Thuốc được đưa vào cơ thể ở dạng uống, thụt, đắp vào da, tiêm. Các tác dụng phụ của morphin rất đa dạng, nhưng điển hình nhất là những hội chứng như táo bón, nôn nao, ói mửa, mệt lừ đừ…

Loại morphin phóng thích có kiểm soát (skennan), phóng thích morphin từ từ trong một thời gian dài và cho một nồng độ ổn định với liều lượng đều đặn. Viên thuốc phóng thích chậm ít gây nôn ói so với tiêm và kéo dài thời gian làm giảm đau suốt đêm. Thường cho một liều từ 8-12 giờ là an toàn. Hiện nay ở Việt Nam chưa có dạng morphin sirô.

Trong trường hợp sử dụng các thuốc opioids uống cũng không có tác dụng nữa, để điều trị cơn đau một cách hiệu quả phải dùng morphin tiêm. Đánh giá hiệu quả giảm đau mỗi khi tiêm và tăng dần liều đến khi bệnh nhân hết đau. Tiếp theo sẽ chuyển thành bước điều trị giảm đau có liều lượng kiểm soát được do đã biết liều thuốc thích hợp.

Nhiều bệnh nhân ung thư có những cơn đau đột biến mặc dù được dùng các thuốc chống đau liên tục. Những cơn đau này thường dữ dội và gọi là đau vượt rào. Những cơn đau này khác nhau về cường độ và thời gian cũng như căn nguyên ở từng bệnh nhân, chúng thường xuất hiện nhanh, bất ngờ và kéo dài từ vài phút đến vài giờ, trung bình khoảng 30 phút.

Thuốc hiệu nghiệm nhất cho các cơn đau này là morphin, dùng qua đường uống, tiêm thuốc, đặt dưới lưỡi, thụt hậu môn hoặc ngậm ở miệng mà không nuốt. Bệnh nhân có thể dùng liều thứ hai nếu liều đầu tiên không mang lại kết quả mong muốn. Những biện pháp tâm lý và thư giãn, thôi miên, tưởng tượng và đánh lạc hướng cũng có thể giúp điều trị đau cho bệnh nhân ung thư, kể cả các cơn đau vượt rào.

>> Xem thêm Các phương pháp điều trị ung thư: Lợi ích và nguy cơ

Một số thuốc hỗ trợ điều trị đau

Thuốc chống trầm cảm: thường tác dụng chậm, cần một thời gian từ một đến vài tuần. Các thuốc này còn giúp bệnh nhân ngủ, nên có thể dùng vào buổi tối như elavil, pamelor, norpramin.

Thuốc chống động kinh (co giật): có thể dùng trong những trường hợp đau có nguồn gốc thần kinh. Thuốc chống kích động (excitability) cũng có thể làm giảm bớt những cơn đau buốt như kiểu dao đâm.

Corticosteroid: nhóm thuốc này tác dụng phụ tạm thời và lâu dài nặng nề, nên chỉ được dùng khi thật cần thiết dưới dự theo dõi và hướng dẫn của bác sĩ.

Bisphosphonate: cơ chế của nó là kìm hãm sự phá hủy của xương, có thể giúp điều trị đau xương cho bệnh nhân ung thư.

Calcitonin  (sandostatin): dùng trong đau do tắc ruột và những trường hợp bị tiêu chảy nặng.

Nhóm thuốc phóng xạ: thường cần hơn 2 tuần để có thể có tác dụng và tác dụng kéo dài 3-6 tháng. Một điểm yếu của dạng thuốc này là nhiều bệnh nhân bị đau nặng hơn khi dùng thuốc, sau đó mới được giảm đau. Chất dùng phổ biến: strontium – 89 (mertastron).

Các nghiên cứu mới đây cho thấy một vài tia hy vọng có thể xuất phát từ việc nghiên cứu và ứng dụng các độc tố của cá nóc: Puffer fish (tetradotoxin), một số loài ốc sên hoặc sinh vật biển… Những hướng đi có sự khác biệt cơ bản như cân bằng chuyển hóa, giảm axít hóa, giảm thiếu oxy và ứ đọng tuần hoàn cũng cần được khai thác để tìm ra những phương pháp hữu hiệu và an toàn hơn. Các phương thức y học cổ truyền dùng thuốc hoặc không dùng thuốc cũng nên được tìm hiểu, nghiên cứu và ứng dụng để giúp điều trị đau cho bệnh nhân ung thư.

Theo suckhoedoisong.vn
BS. Mai Trung Dũng