Bệnh lao xương khớp và nguy cơ gây tàn phế

Lao xương khớp là bệnh của hệ thống xương khớp có chứa vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis gây ra. Đây được coi là loại lao thứ phát do vi khuẩn từ phổi hoặc hệ tiêu hóa đi theo đường máu hoặc bạch huyết đến khu trú tại một bộ phận nào đó trong xương khớp gây ra bệnh.

bệnh lao xương
Đích ngắm đầu tiên của vi khuẩn lao khi tấn công vào xương khớp chính là các khớp

Mắc lao xương khớp vì sao?

Bệnh lao xương khớp có thể gặp ở bất cứ lứa tuổi nào. Đích ngắm đầu tiên của vi khuẩn lao khi tấn công vào xương khớp chính là các khớp, nhất là khớp háng, khớp gối và cột sống. Các xương khớp xốp, càng lớn và chịu sức nặng càng nhiều thì nguy cơ mắc lao càng cao, thậm chí chúng có thể tấn công và phá hủy bộ khung nâng đỡ cơ thể. Tổn thương thường khu trú ở một vị trí, rất ít khi ở nhiều vị trí. Trong đó lao cột sống chiếm 60-70%, lao khớp háng chiếm 15-20%, lao khớp gối chiếm 10-15%, lao khớp cổ chân 5-10%, lao khớp bàn chân 5%.

Những đối tượng dễ mắc lao xương khớp:

  • Trẻ nhỏ chưa được tiêm phòng lao bằng vắc-xin BCG.
  • Có tiếp xúc với nguồn lây đặc biệt là nguồn lây chính, nguy hiểm, tiếp xúc thường xuyên liên tục.
  • Đã và đang điều trị lao sơ nhiễm, lao phổi hay một lao ngoài phổi khác.
  • Có thể mắc một số bệnh có tính chất toàn thân như: đái tháo đường, loét dạ dày – tá tràng, cắt 2/3 dạ dày.
  • Cơ thể suy giảm miễn dịch, còi xương, suy dinh dưỡng, nhiễm HIV/AIDS, suy kiệt nặng.

Một số thể lao xương khớp

Lao xương khớp thường xuất hiện sau lao sơ nhiễm 2-3 năm (giai đoạn 2 theo Ranke). Hay thấy sau lao các màng và trước lao các nội tạng. Tùy vào vị trí của hệ xương khớp mà bệnh lao xương khớp có những triệu chứng khác nhau.

  • Lao cột sống: Hay còn gọi là bệnh Pott là tình trạng viêm đốt sống, đĩa đệm do lao gây ra. Bệnh có biểu hiện sốt nhẹ về chiều, vã mồ hôi, gầy sút cân, da xanh xao và ăn uống kém. Biểu hiện tại chỗ, bệnh nhân đau cột sống liên tục, cơn đau tăng dần về đêm. Bệnh kéo dài có thể gây xẹp đốt sống gây gù.
  • Lao ngoại biên: hay gặp nhất là lao khớp háng, khớp gối. Một số khớp khác ít gặp hơn như khuỷu tay, cổ tay, cổ chân. Triệu chứng của bệnh cũng tương tự như lao cột sống. Bệnh thường phối hợp với các loại bệnh suy giảm miễn dịch, HIV hoặc đái tháo đường… Tại chỗ có tình trạng sưng, nóng, đau đỏ và thường ở một khớp đơn độc.

Ðừng để tàn phế vì lao xương khớp

Trong các loại viêm khớp do vi khuẩn thì viêm khớp do vi khuẩn lao chiếm hàng đầu về tỷ lệ và mức độ gây tàn phế. Lao xương khớp được đánh giá là một trong những dạng bệnh lao nguy hại nhất vì lứa tuổi thường mắc bệnh là từ 16 – 45; nếu bệnh không được phát hiện sớm và điều trị tích cực sẽ ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống, vì hậu quả của bệnh này là gây tàn phế nặng nề tới các xương khớp bị lao.

 vi khuẩn lao xương
Trong các loại viêm khớp do vi khuẩn thì viêm khớp do vi khuẩn lao chiếm hàng đầu

Ở bệnh nhân mắc lao xương khớp, những chỗ xương khớp bị vi khuẩn lao tấn công sẽ sưng to, nhưng không nóng và không đỏ như những bệnh viêm khớp cấp tính khác. Nếu nhìn được vào ổ khớp sẽ thấy màng hoạt dịch phù nề, loét mặt khớp, sụn có các nốt lao, củ lao và các ổ tiêu hủy tổ chức. Những ổ áp-xe hình thành, trong đó có mủ, hoại tử bã đậu, ở thân xương có thêm các mảnh xương chết và cả tủy xương cũng bị viêm. Các khối áp-xe bùng nhùng ở cạnh khớp hoặc đã vỡ để lại các lỗ rò. Có trường hợp mủ lao đi theo các thớ cơ, tạo nên các ổ áp-xe ở xa, như ổ áp-xe của lao cột sống thắt lưng có thể nằm ở hố chậu hoặc ổ áp-xe của lao khớp háng xuống tận đùi.

Cùng với các dấu hiệu nhiễm khuẩn, sưng các khớp, bệnh nhân lao xương khớp sẽ thấy các hoạt động vận động khó khăn hơn do các khớp và xương đau nhẹ hoặc vừa phải. Chẳng hạn, nếu lao cột sống thì không cúi, không ngửa được; lao khớp háng thì không co duỗi được chân… Các dấu hiệu khác có thể gặp là teo các cơ vận động khớp; gù vẹo, gấp khúc cột sống trong lao cột sống, đi tập tễnh lệch người trong lao khớp háng; liệt và rối loạn cơ tròn do ổ áp-xe lạnh gây chèn ép vào tủy sống,…

Phương pháp điều trị lao xương khớp

Nhờ những tiến bộ về mặt chẩn đoán và điều trị, hiện nay bệnh lao nói chung và lao xương khớp nói riêng có thể được chữa khỏi hoàn toàn với điều kiện chẩn đoán sớm và điều trị sớm đúng nguyên tắc. Điều trị lao xương khớp bao gồm điều trị cơ bản theo đường toàn thân (tức điều trị nguyên nhân gây bệnh) và điều trị phối hợp.

1. Điều trị toàn thân:

Nghỉ ngơi, ăn uống nhiều chất, nhiều vitamin, ở nơi thoáng, nhiều ánh sáng, vệ sinh.

2. Dùng thuốc đặc hiệu một đợt kéo dài, trung bình 2-3 tháng:

a. Phối hợp 3 thuốc:

điều trị lao xương
Phối hợp 3 thuốc: PAS – Streptomycin – TNH, Có tác dụng tốt với lao xương, lao khớp

Phối hợp 3 thuốc: PAS – Streptomycin – TNH, Có tác dụng tốt với lao xương, lao khớp và dùng thời gian dài, tới khi lành khỏi bệnh, trước đây được đề cao, nay còn được áp dụng, phù hợp hoàn cảnh Việt Nam.

  • PAS (Acid Paraamino Salysilic): có độc tính gây rối loạn tiêu hóa, chán ăn, buồn nôn.

Liều dùng: 10-20g/ngày.

  • Steptomycin: rất nhạy cảm với dây thần kinh VIII. Nếu xuất hiện chóng mặt, ù tai, thính lwucj giảm phải ngừng thuốc.

Liều dùng: 1g/ngày x 30 ngày.

  • INH: có ưu điểm thâm nhập được vào tế bào có trực khuẩn lao, có thể gây nhiễm độc biểu hiện: sốt, nổi mẩn, hạ huyết áp, buồn ngủ gấy thiếu vitamin B1 (trong điều trị cần bổ xung thêm vitamin B1).

Liều dùng: 5-6 mg/kg/ngày x 12 tháng.

b. Phối hợp 4 thuốc: Ethabutol – Rifampicin – Steptomycin – TNH.

  • Ethabutol: Có tác dụng ức chế và diệt trực khuẩn Kock gây phản ứng viêm dây thần kinh sau nhãn cầu, rối loạn màu sắc, nhìn đôi, không dùng cho trẻ em, người suy thận mãn, người nghiện rượu.

Liều dùng: 15-25 mg/kg/ngày x 6 tháng.

  • Rifapicin: là thuốc bán tổng hợp, ức chế men tổng hợp ARN của vi khuẩn, có tác dụng với trực khuẩn Kock và các tụ cầu khuẩn, tập trung cao trong ổ bã đậu, tác dụng nhanh chống lao và bội nhiễm.

Biến chứng: có thể gây thiếu máu, giảm tiểu cầu, ảnh hưởng chức năng gan. Nên khi dùng phải kiểm tra chức năng gan trước và trong, sau đợt điều trị.

Liều dùng: 600 mg/ngày x 6 tháng.

2. Bất động chi thể:

Làm giảm đau, giảm co cơ, phòng biến dạng, giúp ổ lao chóng ổn định.

3. Phẫu thuật:

Khi thấy tổn thương rõ thường là ở giai đoạn toàn phát.

  • Đục xương viêm, lấy hết các ổ bã đậu, đóng cứng khớp.
  • Giai đoạn mủ khớp thì rạch tháo mủ. Dùng kháng sinh đặc hiệu, phối hợp bất động tại chỗ ở tư thế chức năng.