Thay khớp gối là một phẫu thuật hiện đã trở thành thường quy để thay thế cho khớp gối bị hư hại, bị bào mòn hay bị bệnh mà nhiều nhất là viêm xương – khớp bằng một khớp nhân tạo. Thay khớp gối được chỉ định khi các phương pháp điều trị khác không thể giúp làm giảm đau hay khôi phục chức năng khớp.
Khớp gối nhân tạo là gì?
Thay khớp gối được chỉ định khi các phương pháp điều trị khác không thể giúp làm giảm đau hay khôi phục chức năng khớp. Nhờ đó giúp đem lại cho bệnh nhân cuộc sống tốt đẹp hơn.
Khớp gối nhân tạo toàn phần gồm ba thành phần chính là:
- Phần lồi cầu đùi,
- Phần mâm chày (làm bằng hợp kim kim loại)
- Mảnh chèn nằm giữa hai thành phần trên (làm bằng polyethylen chất lượng cao).
Khớp gối nhân tạo toàn phần có thể chia làm 3 loại:
- Khớp gối nhân tạo không hạn chế (non contraint),
- Hạn chế một phần
- Hạn chế toàn phần.
Trong đó, loại khớp gối nhân tạo không hạn chế là loại thường được dùng nhất hiện nay cho hầu hết các loại bệnh lý hư khớp gối. Loại này gồm hai loại chính đang được sử dụng rộng rãi là: loại xoay được và loại không xoay được. Khớp gối nhân tạo có tuổi thọ trên dưới 15 năm, nhất là khi khớp thay mới được chăm sóc phù hợp.
Người lớn ở mọi lứa tuổi đều có thể xem xét thay khớp gối khi khớp gối bị hư hoàn toàn và không thể điều trị nội khoa, thay nhiều nhất là những người 60 – 80 tuổi và hiện đang có nhiều hơn những người trẻ được thay khớp gối.
Trong phẫu thuật, các phần xương và sụn bị hư hại của xương đùi, xương chày và xương bánh chè được cắt bỏ và thay bằng một khớp nhân tạo làm bằng hợp kim kim loại, các chất dẻo và polymer chất lượng cao. Khớp nhân tạo có thể xoay và trượt khi gập đùi.
Khi nào sẽ chỉ định phẫu thuật thay khớp gối:
- Người bị đau nghiêm trọng ở khớp gối, bị tình trạng mòn khớp gối dẫn tới suy giảm vận động, làm ảnh hưởng đến khả năng đi lại.
- Tình trạng đau khớp gối kéo dài ảnh hưởng đến chất lượng sống và giấc ngủ.
- Người không thể làm việc và có một sinh hoạt hàng ngày bình thường.
- Người bệnh có phần sụn khớp gối bị tổn thương quá nặng, các phương pháp điều trị nội khoa không mang đến dấu hiệu hiệu quả
- Người bị thoái hóa khớp gối, dính khớp gối, viêm khớp gối dạng thấp, chấn thương khiến sụn gối bị tổn thương.
- Người mắc các bệnh lý khác có thể tác động tới khớp gối như: bệnh rối loạn đông máu, bệnh gout, rối loạn khiến xương phát triển bất thường, hoại tử vô mạch đầu gối, chấn thương đầu gối, biến dạng khớp gối gây đau và mất sụn…
- Khi người bệnh chụp phim X-quang cho thấy khớp gối hư hại nhiều, nhưng bệnh nhân không đau hoặc chỉ đau ít thì cũng có thể được chỉ định thay khớp gối nhân tạo
Chống chỉ định của thay khớp gối
- Bệnh nhân không thể chịu được cuộc mổ và có những bệnh lý nội khoa kèm theo như mắc bệnh tim mạch, suy thận (điều này sẽ được thảo luận giữa bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ gây mê và bác sĩ nội khoa trước khi mổ)…
- Các bệnh nhân có tình trạng viêm nhiễm vùng gối.
- Các bệnh nhân trẻ tuổi nên hạn chế thay khớp vì khớp nhân tạo có tuổi thọ nhất định khoảng 10 – 15 năm nên sau đó nếu khớp thay bị hư sẽ phải thay lại.
- Ở những bệnh nhân quá mập, nguy cơ hư khớp nhân tạo sẽ xuất hiện sớm hơn.
Các loại phẫu thuật thay khớp gối
Có hai loại phẫu thuật chính, phụ thuộc vào tình trạng bệnh của khớp gối:
1. Phẫu thuật thay khớp gối toàn phần:
Rạch một đường mổ trước gối. Hai mặt sụn khớp của lồi cầu đùi và mâm chày sẽ được cắt bỏ đi, thay vào đó là hai thành phần kim loại gắn vào lồi cầu đùi và mâm chày. Các sụn chêm và dây chằng chéo trước cũng sẽ được bỏ đi, dây chằng chéo sau tùy loại khớp mà có thể giữ lại hay bỏ đi. Các thành phần kim loại sẽ gắn vào xương và được giữ chặt bằng một lớp xi măng y khoa mỏng. Một mảnh polyethylen sẽ được chèn vào giữa hai thành phần đùi và mâm chày giúp cho gối cử động nhẹ nhàng.
2. Phẫu thuật thay khớp gối bán phần (còn gọi là thay khớp gối một ngăn):
Đây là một lựa chọn thích hợp khi khớp gối không bị hư hoàn toàn. Chỉ một ngăn của khớp gối bị hư là phải thay, có thể là ngăn ngoài hoặc ngăn trong, và giữ lại các ngăn khác còn tốt. Phẫu thuật nhẹ hơn với thời gian nằm viện và thời gian khỏi bệnh cũng ngắn hơn. Cách đây khoảng hơn chục năm, các bác sĩ chấn thương chỉnh hình đã thực hiện việc thay khớp gối một ngăn và các thế hệ khớp gối một ngăn kế tiếp nhau ra đời với nhiều cải tiến giúp cho chức năng của khớp gối ngày càng hoàn thiện.
Thay khớp gối bán phần có một số lợi ích so với thay toàn phần: việc phẫu tích xương và các mô mềm ít hơn, mất máu ít hơn, biến chứng ít hơn, và phục hồi vận động sớm hơn. Các biến chứng khác gặp ngang nhau giữa hai phương pháp: lỏng khớp, nhiễm trùng, tổn thương thần kinh, gãy xương vùng khớp gối.
Trong chỉ định thay khớp gối một ngăn, bệnh nhân cần thỏa mãn các điều kiện sau:
- Bị hư chỉ một ngăn của khớp gối, các ngăn khác còn tốt.
- Gối vẹo trong ít hơn 10 độ hay vẹo ngoài ít hơn 15 độ và còn nắn chỉnh được.
- Gối không bị hạn chế gập gối và có thể gập hơn 90 độ, gối không bị mất vững và không bị mất duỗi gối ít hơn 10 độ.
- Đau khe khớp bên trong hay bên ngoài khi đi, ngồi hay nằm nghỉ ngơi không đau.
Kỹ thuật thay khớp gối một ngăn bao gồm: một đường mổ khoảng 15 cm mặt trước gối, bộc lộ ngăn khớp gối bị hư. Các bác sĩ sẽ gắn một miếng kim loại vào vùng lồi cầu đùi để thay cho mặt khớp lồi cầu đùi. Phần mặt khớp mâm chày sẽ được đặt một miếng nhựa đặc biệt chắc chịu được sự mài mòn cao. Như vậy, các bác sĩ đã thay thế mặt sụn khớp bằng một miếng nhựa đúng bằng mặt khớp của một ngăn. Trong thay khớp gối một ngăn, các dây chằng chéo trước và sau được bảo tồn (chỉ cắt bỏ trong thay khớp gối toàn phần). Vì cuộc mổ nhỏ hơn và cắt ít xương hơn nên bệnh nhân sẽ ít đau hơn và thời gian hồi phục nhanh hơn. Điều quan trọng hơn là khi khớp gối bán phần bị hư, xương vùng gối còn được bảo tồn ở ngăn còn lại nên việc thay lại sẽ dễ dàng hơn thay khớp gối toàn phần.
Lưu ý, những bệnh nhân không thể thay khớp gối một ngăn là:
- Bệnh nhân bị viêm khớp gối sẽ không được thay khớp gối một ngăn vì nguy cơ nhiễm trùng cao. Cần điều trị triệt để nguyên nhân viêm trước khi quyết định thay khớp gối.
- Bệnh nhân bị loãng xương quá nặng.
- Bệnh nhân có gối bị biến dạng nặng.
- Bệnh nhân có gối bị cứng hay quá lỏng lẻo.
Bệnh thoái hóa khớp ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn cầu, làm giảm khả năng vận động và chất lượng cuộc sống của người bệnh. Tuy nhiên, các phương pháp điều trị bệnh thoái hóa khớp đã có những tiến bộ trong những thập kỷ qua cùng với sự phát triển của công nghệ và hướng điều trị mới giúp cải thiện chất lượng sinh hoạt rất nhiều cho bệnh nhân thoái hóa khớp.